Tra Từ Điển Đạo Phật

Tìm kiếm theo chữ cái

Tinh cần hộ trì

Trong thân chúng ta có sáu căn: - Mắt - Tai - Mũi - Miệng - Thân - Ý. Sáu chỗ này là sáu cửa ra vào của sáu trần. Vì thế Phật dạy: “Phải siêng năng luôn luôn hộ trì các căn”. Hộ trì Mắt: phải giữ gìn trước nhất, vì sắc tướng của sáu trần lúc nào cũng có, nên nó sẽ theo cửa mắt mà vào.

Vậy giữ gìn mắt như thế nào? tức là phòng hộ mắt thì phải chấp nhận sống độc cư, không tiếp duyên ra ngoài. Lúc ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài luôn luôn phải hướng tâm nhắc mắt phải nhìn vào trong thân; phải thấy bước chân đi, khi đi; phải thấy hơi thở ra hơi thở vào, khi ngồi.

Không phòng hộ được như vậy thì mắt dính sắc; mắt dính sắc thì tâm phóng dật; tâm phóng dật thì phá hạnh độc cư; phá hạnh độc cư thì tâm có tinh cần tu tập pháp gì thì cũng không kết quả; tâm tu tập không kết quả thì không có năng lực; không có năng lực thì không đoạn tận dục và ác pháp; không đoạn tận dục và ác pháp thì không còn cách nào chế ngự được tâm.

Và như vậy thì thân tâm của chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khổ. Hộ trì Tai: Phòng hộ tai khi ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài, phải tác ý nhắc tai phải nghe vào tiếng chân bước đi, khi đi; tiếng hơi thở ra, tiếng hơi thở vô, khi ngồi.

Có phòng hộ tai như vậy tai mới không dính mắc thinh trần; tai không dính mắc thinh trần thì tai thanh tịnh; tai thanh tịnh thì tâm thanh tịnh. Tai thanh tịnh thì tu các pháp mới có năng lực, mới đoạn tận, mới chế ngự dục và ác pháp.

Nhờ đó con đường tu tập mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Hộ trì Mũi: Mũi thường hay ngửi mùi, tức là hương trần. Hương trần gồm có:

1- Mùi thơm

2- Mùi thối. Mũi ngửi mùi thơm sanh ra ưa thích, gặp mùi thối thì không ưa thích.

Tính chất của hương trần, loài này cho là thơm, nhưng loài khác cho là thối. Cách tu như thế nào đối trị với hương trần? Đối trị với hương trần lúc nào cũng phải phòng hộ mũi bằng cách tác ý hướng dẫn mũi ngửi vào trong thân, thân hành nội (hơi thở) và thân hành ngoại (kinh hành).

Thơm cũng không khởi dục tham đắm, thối cũng không trốn chạy, chỉ có duy nhất siêng năng cần mẫn liên tục tác ý dẫn mũi ngửi vào trong thân cũng giống như dẫn tai và mắt vậy. Có dẫn tai, mắt, mũi như vậy thì mới tu tập nhiếp phục tâm mình được và tâm mới an trú được trong thân hành tức là tâm định trên thân.

Nhờ sống hộ trì mắt, tai, mũi được như vậy, nên tâm tu tập mới có đầy đủ năng lực để chế ngự, đoạn tận dục và ác pháp. Hộ trì Miệng: Hộ trì miệng có hai phần:

1- Hộ trì miệng về ăn, uống.

2- Hộ trì miệng về nói.

br> - Hộ trì miệng về ăn uống: thì không được ăn uống phi thời, ăn uống phải có tiết độ, phải đúng giờ giấc, ăn uống không được ham thích ăn ngon, ăn uống phải biết quán thực phẩm bất tịnh để sanh tâm nhàm chán.

Ăn uống phải sáng suốt, tư duy: ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Ăn để sống để tu hành, để thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Ăn để sống để hộ trì các căn không cho dục và các ác pháp tác động sai khiến hoặc xâm chiếm, làm khổ mình làm khổ người và tất cả chúng sanh.

Ăn để sống để làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh, chứ không phải ăn để sống để chạy theo dục lạc, để chấp nhận đời sống phải chịu nhiều khổ đau. Ăn để sống để làm chủ thân tâm, khiến cho thân tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải để tranh luận hơn thua, để tranh đua về ăn uống, để tranh chấp về danh, lợi hơn thiệt ở đời.

Ăn để sống để biết thương yêu mọi người, để giúp đỡ mọi người bất hạnh trong xã hội, để an ủi, chia sẻ những nỗi thương đau, những nỗi mất mát mà con người đang, sẽ phải chịu. Ăn để sống để thấy trách nhiệm bổn phận đạo đức làm người không nên làm khổ mình, khổ người, chứ không phải ăn để sống để vì sự sống của mình mà chà đạp lên sự sống của bao nhiêu người khác và loài vật khác.

.
- Hộ trì miệng về lời nói: không được nói những lời thiếu chân thật (xin đọc lại Thánh đức chân thật trong Mười Giới Thánh Đức Sa Di). Hộ trì miệng về lời nói thì không được nói lời hung dữ; không được chửi mắng, nạt nộ, hăm dọa người khác; không được la lớn tiếng, không được chửi thề nói lời tục tỉu, không được xưng hô mày, tao, nó hắn, y.

Không được nói thêm bớt, nói xấu người khác, không được vu khống, vu oan giá họa, không được nói lật lọng... Không được nói móc lò, nói mỉa mai người khác, nói giễu cợt, nói châm chọc... Tóm lại, hộ trì miệng là giữ gìn lời nói không làm khổ mình, khổ người, luôn nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, đầy lòng từ ái, ôn hòa, tha thứ, thân thương và yêu mến.

Lời nói luôn đem đến mình vui, người khác vui. giác ngộ: Hộ trì thân có hai phần: Hộ trì các hành động của thân: Mỗi thân hành phải được ý thức kiểm duyệt. không cho các ác pháp xâm chiếm vào thân, phải nuôi thân bằng chánh mạng, Đẩy lùi các bệnh tật trên thân.

Tìm mọi cách giúp cho thân được an trú, thanh tịnh và vô sự, theo pháp môn Định Niệm Hơi Thở.
- Bằng phương pháp Tứ Niệm Xứ. Bằng phương pháp Thân Hành Niệm giúp cho thân tâm sanh bảy Giác Chi. Hộ trì ý: Hộ trì ý căn có ba phần: Sử dụng tri kiến - Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý - Sử dụng giới luật.

ử dụng tri kiến tức là tu tập Định Vô Lậu. Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý thường xuyên tác ý để tâm có một nội lực mạnh mẽ. Sử dụng giới luật: lấy giới luật làm tiêu chuẩn để ý thức nhắm vào tư duy quan sát các pháp đang trùng trùng duyên khởi.

br>Trong thân chúng ta có sáu căn: - Mắt - Tai - Mũi - Miệng - Thân - Ý. Sáu chỗ này là sáu cửa ra vào của sáu trần. Vì thế Phật dạy: “Phải siêng năng luôn luôn hộ trì các căn”. Hộ trì Mắt: phải giữ gìn trước nhất, vì sắc tướng của sáu trần lúc nào cũng có, nên nó sẽ theo cửa mắt mà vào.

Vậy giữ gìn mắt như thế nào? tức là phòng hộ mắt thì phải chấp nhận sống độc cư, không tiếp duyên ra ngoài. Lúc ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài luôn luôn phải hướng tâm nhắc mắt phải nhìn vào trong thân; phải thấy bước chân đi, khi đi; phải thấy hơi thở ra hơi thở vào, khi ngồi.

Không phòng hộ được như vậy thì mắt dính sắc; mắt dính sắc thì tâm phóng dật; tâm phóng dật thì phá hạnh độc cư; phá hạnh độc cư thì tâm có tinh cần tu tập pháp gì thì cũng không kết quả; tâm tu tập không kết quả thì không có năng lực; không có năng lực thì không đoạn tận dục và ác pháp; không đoạn tận dục và ác pháp thì không còn cách nào chế ngự được tâm.

Và như vậy thì thân tâm của chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khổ. Hộ trì Tai: Phòng hộ tai khi ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài, phải tác ý nhắc tai phải nghe vào tiếng chân bước đi, khi đi; tiếng hơi thở ra, tiếng hơi thở vô, khi ngồi.

Có phòng hộ tai như vậy tai mới không dính mắc thinh trần; tai không dính mắc thinh trần thì tai thanh tịnh; tai thanh tịnh thì tâm thanh tịnh. Tai thanh tịnh thì tu các pháp mới có năng lực, mới đoạn tận, mới chế ngự dục và ác pháp.

Nhờ đó con đường tu tập mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Hộ trì Mũi: Mũi thường hay ngửi mùi, tức là hương trần. Hương trần gồm có:

1- Mùi thơm

2- Mùi thối. Mũi ngửi mùi thơm sanh ra ưa thích, gặp mùi thối thì không ưa thích.

Tính chất của hương trần, loài này cho là thơm, nhưng loài khác cho là thối. Cách tu như thế nào đối trị với hương trần? Đối trị với hương trần lúc nào cũng phải phòng hộ mũi bằng cách tác ý hướng dẫn mũi ngửi vào trong thân, thân hành nội (hơi thở) và thân hành ngoại (kinh hành).

Thơm cũng không khởi dục tham đắm, thối cũng không trốn chạy, chỉ có duy nhất siêng năng cần mẫn liên tục tác ý dẫn mũi ngửi vào trong thân cũng giống như dẫn tai và mắt vậy. Có dẫn tai, mắt, mũi như vậy thì mới tu tập nhiếp phục tâm mình được và tâm mới an trú được trong thân hành tức là tâm định trên thân.

Nhờ sống hộ trì mắt, tai, mũi được như vậy, nên tâm tu tập mới có đầy đủ năng lực để chế ngự, đoạn tận dục và ác pháp. Hộ trì Miệng: Hộ trì miệng có hai phần:

1- Hộ trì miệng về ăn, uống.

2- Hộ trì miệng về nói.

br> - Hộ trì miệng về ăn uống: thì không được ăn uống phi thời, ăn uống phải có tiết độ, phải đúng giờ giấc, ăn uống không được ham thích ăn ngon, ăn uống phải biết quán thực phẩm bất tịnh để sanh tâm nhàm chán.

Ăn uống phải sáng suốt, tư duy: ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Ăn để sống để tu hành, để thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Ăn để sống để hộ trì các căn không cho dục và các ác pháp tác động sai khiến hoặc xâm chiếm, làm khổ mình làm khổ người và tất cả chúng sanh.

Ăn để sống để làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh, chứ không phải ăn để sống để chạy theo dục lạc, để chấp nhận đời sống phải chịu nhiều khổ đau. Ăn để sống để làm chủ thân tâm, khiến cho thân tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải để tranh luận hơn thua, để tranh đua về ăn uống, để tranh chấp về danh, lợi hơn thiệt ở đời.

Ăn để sống để biết thương yêu mọi người, để giúp đỡ mọi người bất hạnh trong xã hội, để an ủi, chia sẻ những nỗi thương đau, những nỗi mất mát mà con người đang, sẽ phải chịu. Ăn để sống để thấy trách nhiệm bổn phận đạo đức làm người không nên làm khổ mình, khổ người, chứ không phải ăn để sống để vì sự sống của mình mà chà đạp lên sự sống của bao nhiêu người khác và loài vật khác.

.
- Hộ trì miệng về lời nói: không được nói những lời thiếu chân thật (xin đọc lại Thánh đức chân thật trong Mười Giới Thánh Đức Sa Di). Hộ trì miệng về lời nói thì không được nói lời hung dữ; không được chửi mắng, nạt nộ, hăm dọa người khác; không được la lớn tiếng, không được chửi thề nói lời tục tỉu, không được xưng hô mày, tao, nó hắn, y.

Không được nói thêm bớt, nói xấu người khác, không được vu khống, vu oan giá họa, không được nói lật lọng... Không được nói móc lò, nói mỉa mai người khác, nói giễu cợt, nói châm chọc... Tóm lại, hộ trì miệng là giữ gìn lời nói không làm khổ mình, khổ người, luôn nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, đầy lòng từ ái, ôn hòa, tha thứ, thân thương và yêu mến.

Lời nói luôn đem đến mình vui, người khác vui. giác ngộ: Hộ trì thân có hai phần: Hộ trì các hành động của thân: Mỗi thân hành phải được ý thức kiểm duyệt. không cho các ác pháp xâm chiếm vào thân, phải nuôi thân bằng chánh mạng, Đẩy lùi các bệnh tật trên thân.

Tìm mọi cách giúp cho thân được an trú, thanh tịnh và vô sự, theo pháp môn Định Niệm Hơi Thở.
- Bằng phương pháp Tứ Niệm Xứ. Bằng phương pháp Thân Hành Niệm giúp cho thân tâm sanh bảy Giác Chi. Hộ trì ý: Hộ trì ý căn có ba phần: Sử dụng tri kiến - Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý - Sử dụng giới luật.

ử dụng tri kiến tức là tu tập Định Vô Lậu. Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý thường xuyên tác ý để tâm có một nội lực mạnh mẽ. Sử dụng giới luật: lấy giới luật làm tiêu chuẩn để ý thức nhắm vào tư duy quan sát các pháp đang trùng trùng duyên khởi. T (

2/5)
Trong thân chúng ta có sáu căn: - Mắt - Tai - Mũi - Miệng - Thân - Ý. Sáu chỗ này là sáu cửa ra vào của sáu trần. Vì thế Phật dạy: “Phải siêng năng luôn luôn hộ trì các căn”. Hộ trì Mắt: phải giữ gìn trước nhất, vì sắc tướng của sáu trần lúc nào cũng có, nên nó sẽ theo cửa mắt mà vào. Vậy giữ gìn mắt như thế nào? tức là phòng hộ mắt thì phải chấp nhận sống độc cư, không tiếp duyên ra ngoài.

Lúc ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài luôn luôn phải hướng tâm nhắc mắt phải nhìn vào trong thân; phải thấy bước chân đi, khi đi; phải thấy hơi thở ra hơi thở vào, khi ngồi. Không phòng hộ được như vậy thì mắt dính sắc; mắt dính sắc thì tâm phóng dật; tâm phóng dật thì phá hạnh độc cư; phá hạnh độc cư thì tâm có tinh cần tu tập pháp gì thì cũng không kết quả; tâm tu tập không kết quả thì không có năng lực; không có năng lực thì không đoạn tận dục và ác pháp; không đoạn tận dục và ác pháp thì không còn cách nào chế ngự được tâm.

Và như vậy thì thân tâm của chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khổ. Hộ trì Tai: Phòng hộ tai khi ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài, phải tác ý nhắc tai phải nghe vào tiếng chân bước đi, khi đi; tiếng hơi thở ra, tiếng hơi thở vô, khi ngồi. Có phòng hộ tai như vậy tai mới không dính mắc thinh trần; tai không dính mắc thinh trần thì tai thanh tịnh; tai thanh tịnh thì tâm thanh tịnh.

Tai thanh tịnh thì tu các pháp mới có năng lực, mới đoạn tận, mới chế ngự dục và ác pháp. Nhờ đó con đường tu tập mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Hộ trì Mũi: Mũi thường hay ngửi mùi, tức là hương trần. Hương trần gồm có:

1- Mùi thơm

2- Mùi thối. Mũi ngửi mùi thơm sanh ra ưa thích, gặp mùi thối thì không ưa thích. Tính chất của hương trần, loài này cho là thơm, nhưng loài khác cho là thối.

Cách tu như thế nào đối trị với hương trần? Đối trị với hương trần lúc nào cũng phải phòng hộ mũi bằng cách tác ý hướng dẫn mũi ngửi vào trong thân, thân hành nội (hơi thở) và thân hành ngoại (kinh hành).

Thơm cũng không khởi dục tham đắm, thối cũng không trốn chạy, chỉ có duy nhất siêng năng cần mẫn liên tục tác ý dẫn mũi ngửi vào trong thân cũng giống như dẫn tai và mắt vậy. Có dẫn tai, mắt, mũi như vậy thì mới tu tập nhiếp phục tâm mình được và tâm mới an trú được trong thân hành tức là tâm định trên thân.

Nhờ sống hộ trì mắt, tai, mũi được như vậy, nên tâm tu tập mới có đầy đủ năng lực để chế ngự, đoạn tận dục và ác pháp. Hộ trì Miệng: Hộ trì miệng có hai phần:

1- Hộ trì miệng về ăn, uống.

2- Hộ trì miệng về nói.
- Hộ trì miệng về ăn uống: thì không được ăn uống phi thời, ăn uống phải có tiết độ, phải đúng giờ giấc, ăn uống không được ham thích ăn ngon, ăn uống phải biết quán thực phẩm bất tịnh để sanh tâm nhàm chán.

Ăn uống phải sáng suốt, tư duy: ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Ăn để sống để tu hành, để thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Ăn để sống để hộ trì các căn không cho dục và các ác pháp tác động sai khiến hoặc xâm chiếm, làm khổ mình làm khổ người và tất cả chúng sanh.

Ăn để sống để làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh, chứ không phải ăn để sống để chạy theo dục lạc, để chấp nhận đời sống phải chịu nhiều khổ đau. Ăn để sống để làm chủ thân tâm, khiến cho thân tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải để tranh luận hơn thua, để tranh đua về ăn uống, để tranh chấp về danh, lợi hơn thiệt ở đời.

Ăn để sống để biết thương yêu mọi người, để giúp đỡ mọi người bất hạnh trong xã hội, để an ủi, chia sẻ những nỗi thương đau, những nỗi mất mát mà con người đang, sẽ phải chịu. Ăn để sống để thấy trách nhiệm bổn phận đạo đức làm người không nên làm khổ mình, khổ người, chứ không phải ăn để sống để vì sự sống của mình mà chà đạp lên sự sống của bao nhiêu người khác và loài vật khác.

.
- Hộ trì miệng về lời nói: không được nói những lời thiếu chân thật (xin đọc lại Thánh đức chân thật trong Mười Giới Thánh Đức Sa Di). Hộ trì miệng về lời nói thì không được nói lời hung dữ; không được chửi mắng, nạt nộ, hăm dọa người khác; không được la lớn tiếng, không được chửi thề nói lời tục tỉu, không được xưng hô mày, tao, nó hắn, y.

Không được nói thêm bớt, nói xấu người khác, không được vu khống, vu oan giá họa, không được nói lật lọng... Không được nói móc lò, nói mỉa mai người khác, nói giễu cợt, nói châm chọc... Tóm lại, hộ trì miệng là giữ gìn lời nói không làm khổ mình, khổ người, luôn nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, đầy lòng từ ái, ôn hòa, tha thứ, thân thương và yêu mến.

Lời nói luôn đem đến mình vui, người khác vui. giác ngộ. Hộ trì thân: có hai phần:

1/ Hộ trì các hành động của thân: Mỗi thân hành phải được ý thức kiểm duyệt. không cho các ác pháp xâm chiếm vào thân, phải nuôi thân bằng chánh mạng.

2/ Đẩy lùi các bệnh tật trên thân.

Tìm mọi cách giúp cho thân được an trú, thanh tịnh và vô sự, theo pháp môn Định Niệm Hơi Thở.
- Bằng phương pháp Tứ Niệm Xứ.
- Bằng phương pháp Thân Hành Niệm giúp cho thân tâm sanh bảy Giác Chi. Hộ trì ý: Hộ trì ý căn có ba phần: Sử dụng tri kiến - Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý - Sử dụng giới luật. Sử dụng tri kiến tức là tu tập Định Vô Lậu. Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý thường xuyên tác ý để tâm có nội lực mạnh mẽ.

Sử dụng giới luật: lấy giới luật làm tiêu chuẩn để ý thức nhắm vào tư duy quan sát các pháp đang trùng trùng duyên khởi.

Gợi ý